@@@
RƯỢU
NÚI AI RÓT MÀ SAY,...
(Nguyễn Chu Nhạc)
Vậy là nhà thơ Lò Cao Nhum,
người con của Bản Lác, Mai Châu ra đi cũng
đã vài năm rồi đấy.
Biết đến tên và thơ Lo Cao
Nhum thì từ lâu, tôi đi Bản Lác cũng nhiều, nhưng cũng chỉ có một lần ghé thăm
nhà Lò Cao Nhum. Ấy là khoảng mươi năm trước, tôi cùng nhà thơ Trần Đăng Khoa,
nhà thơ Nguyễn Thanh Vân, nhà văn Nguyễn Trọng Huân và nhạc sĩ Phạm Quang Hiển
vô xứ Thanh chơi, thăm nhà của nhà văn
Trịnh Tuyên ở Cẩm Thủy, rồi quá bộ lên Bá Thước thăm nhà thơ Trương Thị Màu, khi
về thì tiện đường vòng qua Bản Lác, Mai Châu ghé nhà Lò Cao Nhum. Có trà có
rượu nên không khí cuộc gặp thêm phần ấm áp, rôm rả, thơ phú dạt dào,...
Trang cá nhân của nhà thơ
Lò Cao Nhum trên Blog Tiếng Việt lấy tên Rượu
Núi, tôi đọc thơ ông chủ yếu ở đây. Thi thoảng thấy tên ông trên báo, song
qua đó cũng đủ để nhận diện, thấy được chất văn hóa bản địa (Thái và Mường) và dấu ấn bản tính nhỏ
nhẹ rủm rỉm riêng có của Lò Cao Nhum.
Ngược thời gian để nhận diện
một Lò Cao Nhum, thơ và người. Trang cá nhân của ông lấy tên RƯỢU NÚI, thì hẳn
ông phải tâm đắc với bài thơ này và xem đó như sự đại diện hay một tuyên ngôn
về thơ, về quê hưởng bản quán và con người mình...
Hãy xem cái cách Lò Cao
Nhum, hay rộng ra là người Thái Bản Lác mời rượu bạn bè: “Rượu núi/ Bạn
đến/ Mời ngồi xếp bằng tròn giữa chiếu/
Chiếu đan bằng tia mặt trời/ Bát rượu trăng rằm/ Mong hồn vía bạn đừng thất lạc/ Cầu
cụ ông, cụ bà, cây si, cây đa/ Gái bản
nụ hoa, trai mường cây nghiến/ Ngửa bàn
tay cũng da/ Úp bàn tay cũng thịt...”. Vậy thì đâu còn xa lạ
nữa, dù bạn là người Thái, người Mường, người Mông, người Kinh hay dân tộc nào
đi nữa thì bàn tay cũng da cũng thịt như nhau cả thôi.
Có thẻ
nói, chỉ bằng một bài thơ “Rượu núi”
Lò Cao Nhum đã xóa nhòa đi cái khoảng cách về sắc tộc. về sự giàu nghèo, gần xa,
cũ mới,... Đấy là cái khéo riêng có của nhà thơ, ấy còn là văn hóa ứng xử của
người Thái và một số dân tộc thiểu số vùng cao...
Cảm giác chung, Lò
Cao Nhum cũng như các nhà thơ người dân tộc thiểu số vùng cao khác (Pơ Sảo Mìn, Lò Ngân Sủn, Mã A Lềnh...)
yếu tố dân tộc bản địa rất rõ. Tất nhiên, mỗi dân tộc thiểu số vùng cao, bản
sắc văn hóa khác nhau đôi chút, song tựu chung, văn hóa ứng xử lại khá giống
nhau, ấy là sự hiếu khách và lòng tin ở con người. Giờ hãy xem Lò Cao Nhum
thưởng trà với bạn hữu ra sao: “Hương trà thơm thao thức/ Quyện vấn vít mãi thôi/ Em
nâng lời chén nước/ Sóng sánh vỗ lòng tôi/ Nhấp một ngụm thành hai/ Nhấp hai
ngụm thành mười/ Một đêm trà gió thức/ Chung chiêng lá trọn đời”.(Hương trà).
Với cái phép nhân của lòng người “một
thành hai, hai thành mười” ấy, mới thấy Lo Cao Nhum khéo và cũng ngoa làm sao.
Nét văn hóa của người miền núi đồng
rừng, tục “bắt vợ” cũng được Lò Cao Nhum thi vị hóa: “... Nghiêng lòng rình khe vách/
Ngả tim ngóng buồng trong/ Đâu là trời, là đất/ Đâu là vuông, là tròn./ Tiếng
khèn hổn hển/ Khua lạo xạo con đường đá sỏi/ Bỗng lách qua khe liếp/ Vồ dốc núi/
Chộp rừng rú/ Bế bổng thiên thần/ Nhẹ nhõm hòa vào sương ban mai” (Bắt vợ). Văn hóa ứng xử của người Thái, người Mường vốn
tinh tế, phả vào người thơ rủm rỉm Lò Cao Nhum nên đã khéo càng thêm khéo.
Chuyện gia đình, có khéo ăn ở bao nhiêu cũng chẳng thể tránh được những giận
hờn, sứt mẻ. Nhưng với Lò Cao Nhum những
lúc thế này: “Hơi tí em bỏ về bên ngoại/
Làm cơm canh, ấm chén rối lên/ Bậu cửa vào vấp chân/ Khung cửa ra đụng trán/Thương
cái bếp nguội lạnh...”. Để vợ giận thì chỉ có thua và thiệt thôi, nên người
thơ nhủ lòng mình, cũng là cách lấy lòng vợ:
“Thôi cũng vì cái vung trót méo/ Cũng vì nắng quá mà mưa/ May mà vung còn dẻo/
May mà vẹo lại tròn/ Bữa cơm trưa một mình/Anh còn so thêm đũa” (Mưa nắng nhà mình). Đến nước này thì gỗ
đá cũng tan thành nước, người vợ nào cũng đành cầm lòng, giận dỗi chi nữa. Nịnh
vợ giỏi thế, khó có ai hơn được Lò Cao Nhum. Thường ngày là vậy,nhà thơ nịnh đầm theo quán tính, nhưng
hễ có dịp thì tội gì mà không giả vờ có chút tị nạnh với chị em : “Làm phụ nữ thích thật/ Có ngày vui tháng ba/
Có ngày hoa tháng mười/ Làm phụ nữ vui thật.../
Làm phụ nữ sướng thật/ Bao nhiêu là tiếng khen/ Bao nhiêu là lời tán/ Ngọt
thơm suốt cả đêm..”, nhưng rồi vẫn nửa thương nửa răn dạy: “Ngày vui ngắn chẳng tày/ Về còn lo con nhỏ/
Còn trăm ngày giặt giũ/ Còn nghìn đêm khóc thầm./ Phụ nữ vốn rộng lòng/ Đàn ông
đừng hẹp bụng/ Phụ nữ đáng thưởng lắm/ Ngày nào cũng ngày hoa” (Thơ vui ngày hoa tặng cánh mày râu). Tị
nạnh như thế thì cũng là một cách lấy lòng người thôi.
Những
tưởng chỉ vui bàn chuyện văn hóa dân tộc, ứng xử cộng đồng làng bản, gia đình
vậy thôi, chứ thực ra, nhà thơ cũng thích bàn chuyện thế sự. Hãy xem Lò Cao
Nhum bàn chuyện thế sự ra sao? “Họ bảo
tôi đi đường ngược chiều/ Bị phạt là điều cầm chắc/ Chợt hiểu đấy là phép tắc/ Giống
bản mình giăng bủa Ta leo... / Ngôi
nhà ta có nóc, có sàn/ Làm người không thể không phép tắc/ Phép tắc không thể
không chòi gác/ Cuộc đời có ngã ba, ngã bảy/Trong ta có đèn đỏ hay không...” (Ngược chiều). Vậy thì lệ làng, phép
nước cũng nhìn nhận từ bản thân mình mà ra. Bố bản hay ai cũng thế cả thôi, cứ
phải khép mình mà tuân thủ suy ra phép công thì xã hội mới có trật tự chứ. Thế
sự với Lò Cao Nhum cứ thủ thỉ là vậy, chuyện thế sự đơn giản là lời dăn con: “Rồi
ngày mai con xuống núi/ Gặp phố phường ngã bảy, ngã mười/ Gặp lòng người đỏ,
vàng, đen, trắng/ Mỗi lần vấp, một bước đi/ Sẽ sực nhớ người thầy trên núi.../
Ngày mai con xuống núi/ Cùng tay nải hành
trang đầu tiên/ Đi như suối chảy về với biển/ Chớ quên mạch đá cội nguồn.” (Ngày mai con xuống núi) v.v... Cứ rủ rỉ
tâm sự như tự nói với chính mình, Lò Cao Nhum suy ngẫm và kể chuyện thế sự theo cách riêng của mình,
chẳng khác mấy việc hàng ngày ông tìm
lối mòn lên núi hay đi nương rãy,...
Như thế, cũng không có nghĩa mọi việc phả
vào nhà thơ đều đơn giản cả, không đa sự song ông cũng ưa triết lý: “Ừ đời người mới đó buổi mai/ Dăm chén rượu
đã chạm chiều chạng vạng/ Nồng say mối tình không biết ngán/ Chẳng khỏa đầy nỗi
hoảng hốt bâng quơ./ Ừ thì trời cho ta làm thơ/ Phơi phới đi từ thiếu thời cắp
sách/ Nhưng cũng khoác cho ta áo rách.../ Sáu mươi năm còn vá đụp vá chằn...”
(Những con giáp di); “Ở trên núi có bấy nhiêu hộ/ Một phần ba giầu
có đỏ rừng,... / Một phần ba mới giầu nửa chừng/ Vừa ăn vừa dụm sinh dè
sẻn,.../ Còn lại một phần ba liêu xiêu/ Gió tháng tám tốc cả lên rừng/ Đã thế
sự nghèo đuổi tận cùng/ Cáo hay bắt trúng gà kẻ khó” (Trên núi có ba loại người); “”Pù
Bin có sấm rền bất chợt/ Dội lên giấc ngủ giữa trưa mù/ Giấc mơ không thể mơ
trọn giấc... / Người Pù Bin lầm lỳ như núi/ Cao xanh trên sương gió, nắng mưa/
Người rẻo cao tình bền củi lửa/ Râm ran cháy nỏ suốt bốn mùa (Ở đèo cao Pù Bin),... v.v...
Quả thật, đọc thơ Lò Cao Nhum, những khi bắt gặp ông triết lý, tôi
cứ cười thầm, nghĩ bụng và hình dung, khi viết ra những câu thơ mang tính triết
luận như vậy, hẳn nhà thơ nhẩm bụng hay lẩm bẩm một mình “này, đừng có nghĩ là người vùng cao chúng tớ ai cũng thật thà như đếm
đâu nhớ,...?”.
Nhớ về Lò
Cao Nhum, không thể không nhớ đến bài thơ Rượu
núi của ông. Nhưng Lò Cao Nhum còn có những bài thơ khác, ta không thể bỏ
qua để thêm phần rõ cái triết lý về nguồn cội sắc tộc, dấu ấn văn hóa bản địa,
chất Thái Mường hòa quện nhuần nhị trong con người và thơ ca của Lò Cao Nhum (ông có cha người Thái mẹ người Mường) :
“Nhận ra anh em/ Nhận ra họ hàng/ Nhận ra
đồng tộc/ Khi nóc nhà có hoa khau cút/ Đấy là tin hiệu vui/ Tín hiệu máu mủ/
Anh có thể cởi dép/ Rửa chân lên thang/ Tìm chỗ ngồi của mình nơi góc
chiếu,.../ Rồi anh ra đi/ Ngoái nhìn ngọn hoa mưa nắng/ Thơm thảo nơi mái lá
nhà sàn/ Văng vẳng níu chân lời hát/ Người ta chỉ muốn gần nhau thôi” (Nóc nhà ta có hoa khau cút); “Ông nội
tôi khai sinh miền đất/ Bắt đầu là gồng gánh núi non/ Ở trong núi có mồ hôi của
đá/ Trong đá kết tinh nỗi khổ/ Nỗi khổ ủ niềm khát khao/ Rồi ông vung dao phạt
quang mầm đói/ Ông chọc lỗ gieo hạt củ no/ Sự sống ấm chân trời hoang sơ,...”
(Ông nội tôi khai sinh miền đất); v.v....
Vậy đấy, văn hóa
bản địa, sắc tộc tháng ngày lẽo đẽo theo chân
nhà thơ mang dấu ấn đời sống thường nhật, từ nét hoa văn nhà sàn, chuyện
cha ông khai sơn lập bản, nét ẩm thực bát rượu nắm xôi, đến phong tục chợ phiên
chợ tình,... với Lò Cao Nhum hòa quện, chung đúc thành thơ mà nên giọng điệu
của riêng ông. Lò Cao Nhum ít nhiều góp
phần công sức làm phong phú văn hóa dân tộc mình.
Những
ai, đã ít nhất một lần, như tôi từng
nâng bát rượu núi ngồi khoanh chân nơi sàn nhà Lò Cao Nhum ở Bản Lác, thì hãy
thêm lần nâng bát rượu núi trên tay, bởi Lò Cao Nhum đã mời: “... Rượu nhà tôi// Rượu buộc
chỉ cổ tay/ Thắp lửa tình chiêng, tình trống/ Đã uống vắt kiệt chum mà uống/ Đã
say đổ tràn tình mà say/ Nào bạn ơi/ Cụng bát cùng rẻo cao muôn đời/ Chụm bền
ngọn núi/ Giữa chiếu đan bằng tia mặt trời.”...
Giờ đây, .... Rượu
núi ai rót mà say?...
Khi mà, Lò Cao Nhum đã rời
bỏ mọi người, ngủ vùi giấc muôn đời nơi Xứ Mường đồng vàng, núi xanh, mây
trắng,...thả cho thơ mình mặc sức thung thăng !... ./.


Nhận xét
Đăng nhận xét